Đóng góp của Huấn Cao cho thơ ca và hội họa

Tên của buổi tọa đàm do O Library tổ chức là “Phạn ngữ số nhiều”, dùng để chỉ tài năng của cố nghệ sĩ. Trong thời kỳ này, nhạc sĩ còn làm thơ và vẽ tranh – ông đã thể hiện tài năng và là người tiên phong trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nguyễn Bình Phương, một nhà sưu tập sở hữu hàng trăm cuốn sách minh họa của Phạm Cao, tuyên bố: “Không ai công nhận Phạm Cao là họa sĩ, nhưng ông là người xây dựng trong lĩnh vực minh họa sách ở Việt Nam.” — Cao Cao bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1946. Các tác phẩm theo trường phái tối giản được sử dụng để vẽ minh họa báo chí nhằm truyền đi niềm hy vọng và hy vọng của nhân loại trong chiến tranh. Sau đó ông đã vẽ gần 300 cuốn sách. Nguyễn Bình Phước cho biết Fan Cao sử dụng bút hiện đại, phong cách tối giản và màu sắc tươi sáng nhưng rất hiệu quả. Bìa vở “Thơ đất” của Xuân X. Không phải là biển, nhưng khán giả vẫn có thể hình dung ra những con sóng trắng xóa lăn tăn trên làn nước xanh. Nhà văn Siêu Hải rất thích bìa sách Song La do Fan Cao thiết kế, chỉ với vài chữ cách điệu là có thể thấy họng pháo, con thuyền và cả máu hy sinh trong chiến tranh. Nhiều phông chữ và phông chữ trên bìa sách do Tào Tháo sáng tạo vẫn còn hiện đại, và nhiều nghệ sĩ đã học hỏi từ chúng.

Bìa cuốn sách “Lão Tống” do Tào Tháo thiết kế. Ảnh: O Library .

Nếu Bùi Xuân Phái thích màu đỏ và hồng thì Văn Cao lại chọn màu xanh lam. Màu xanh lá cây là gam màu được anh sử dụng nhiều nhất trong các tác phẩm của mình: xanh tù, sen xanh, Hà Nội vào xuân, Hà Nội thanh lịch… Ngoài ra, các tác phẩm đen trắng cũng tạo nên sự tương phản rõ nét. Văn Cao sử dụng. Sau này, nhiều họa sĩ đã học bút và viết tay từ Vân Ca, chẳng hạn như Trần Ngọc Quý với tập thơ. Như nửa đêm thiếu nữ, tỉnh dậy như thú tội … Nhất là nhảy lầu tự tử từng gây chấn động. Nhà phê bình Thái Bá Vân nói: “Fan Cao là người mê vẽ.” Cố nhạc sỹ Fan Cao được nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toàn chụp.

Về phần thơ, Trần Ngọc Hiếu, Tiến sĩ Văn học. Huấn Cao là một trong những người đi đầu trong việc loại bỏ vần điệu. Trong chiến tranh, thơ Việt Nam rất thích nhịp điệu, dễ đọc, dễ nhớ, nhưng trong những tác phẩm như thế này vào mùa đông năm 1946, người ta chèo lái những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống bằng văn bản, sự nhạy cảm và thời gian trôi qua, ông đã kìm nén. vần. “Kêu gào! Kêu gào đồng cảnh ngộ / Xóm vắng / REO! Bò tót / Quả cầu lửa băng / Lũ cuồn cuộn chảy vào lòng Hà Nội thành sông Hồng” (kể từ mùa đông năm 1946); “Những ngày giông bão, biển chảy Đi ngang qua Hải Phòng / Làng trôi trong đất trời / Muối trên đầu tre mốc meo / Còn sót lại mấy cọng rơm khô trên mái nổi ”(trích từ Hải Khẩu). Chứng kiến ​​đủ loại câu thơ dài ngắn của Huấn Cao không thể gieo vần.

“Điều này làm cho các bài thơ và bài hát của anh ấy trở nên xoay vần, khó nhớ và khó nhớ”, Trần Ngọc Hiếu nói. Về sau, Fan Cao chủ yếu sáng tác những bài thơ không vần.

Vào thời nhân văn, thơ của Fan Cao thường ngắn gọn, không có nhịp điệu, có thể dùng để nói và xem. Đôi khi “có lúc một mình trong rừng sâu không sợ cọp / có khi lá rơi khiến ta hoảng hồn / có khi nước mắt không thể chảy”, đây là một sự thừa nhận. Trần Ngọc Hiếu nói: “Trong những vần thơ của anh, sự im lặng và thiếu biểu cảm khiến người ta bị nghiện và không thể nói thành lời.”

Trần Ngọc Hiếu cũng chia sẻ những bài thơ đầy nhạc của Huấn Cao. Nó không nằm trong giai điệu, mà ở nhịp điệu im lặng. Đây là lý do tại sao nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc, chẳng hạn: Bài thơ Lưu lạc trong bài Suối mơ, Thu cô liêu (1944) và bài hát cùng tên. Đôi khi ông xây dựng nhịp điệu nhanh và dồn dập như Darak Ward (1945) như trong “The Cannon”. Tại hội thảo, các khách mời cũng thảo luận về âm nhạc của Fan Cao. Nhà văn Trương Quý cho rằng: “Quạt Cao là người rất nhanh nhạy và thành công, từ giai điệu trữ tình đến phong phú và tinh giản.” Năm 1944, Văn Cao xuất bản Thiên thai, và năm 1945 Trương Chi-với trữ tình. Và những bài hát có giai điệu lãng mạn. Năm 1945, ông sáng tác nhạc cách mạng “Tianquan” với giai điệu mạnh mẽ. Năm 1947, ông tiếp tục chuyển sang hát Quốc ca của trường-lúc này cùng với Bài hát Trường ca đã trở thành một thể loại mới của âm nhạc Việt Nam. Giai điệu hào hùng “Đây là dòng Lô, đây là Dòng Lô / Chiến sĩ: đây sóng cao căm hờn, sao vàng lấp lánh, nghìn trùng sông Lô” mở đường cho bao nhiệm vụ tiếp theo.Sau chuỗi sự kiện mừng sinh nhật cố nhạc sĩ Fan Cao, tối 15/11, Đêm nhạc Suối mơ sẽ được tổ chức tại Nhà hàng O Hà Nội (Hoàng Hoa Thám, Hà Nội). Những ca khúc nổi tiếng của anh như Suối mơ, Thiên thai, Đàn chim Việt Nam, Bến xuân … sẽ do các ca sĩ Bảo Ngọc, Hoàng Lân, Phạm Trí Trung thể hiện. Đêm nhạc còn thu hút sự tham gia của con trai cố nhạc sĩ Fan Cao Văn Thao, nhạc sĩ Thụy Kha, nhà văn Trương Quý.

Fan Cao (1923-1995) là nhạc sĩ, họa sĩ, người Việt Nam. Ông là tác giả của bài quốc ca Việt Nam “Tiến quân ca”. Nhiều ca khúc nổi tiếng của Văn Cao như Thiên thai, Suối mơ, Trường ca Sông Lô, Tiến về Hà Nội đã để lại dấu ấn trong lòng ông. Năm 1996, ông đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh toàn quốc. Hiểu con người

    Leave Your Comment Here